1. Giới thiệu về Elliott Wave Theory.

Sóng Elliott được sáng tạo ra bởi Ralph Nelson Elliott, một người Mỹ sống cùng thời với Charles Dow (Elliott nhỏ hơn Dow 20 tuổi). Vào những năm 1930 (30 năm sau khi lý thuyết Dow ra mắt), Elliott dành bảy năm để nghiên cứu dữ liệu thị trường chứng khoán. Đến năm 1938, ông tổng hợp kết quả đạt được và giới thiệu trong cuối sách The Wave Principle (Nguyên Lý Sóng)Vào năm 1940, Elliott mở rộng học thuyết của mình để áp dụng với hành vi của con người. Công trình cuối cùng và lớn nhất của ông là quyển sách: Nature’s Law – The Secret of the Universe (tạm dịch: Luật Tự Nhiên – Bí Mật của Vũ Trụ) được xuất bản năm 1946.

Khoa học chứng minh, bản chất con người không thay đổi theo thời gian, từ đó tạo nên tâm lý đám đông và dẫn đến hành vi. Tâm lý đám đông sẽ chuyển dịch từ lạc quan sang bi quan với cường độ và thời gian được lập lại một cách có trình tự. Cảm xúc thay đổi phản ánh lên đường giá tạo nên các khuôn mẫu có thể được nhận diện ở mọi góc độ và mọi khung thời gian. Nguyên Lý Sóng Elliott không đảm bảo chắc chắn hướng di chuyển giá trong tương lai mà làm nhiệm vụ hỗ trợ cho các cơ hội kiếm lời từ thị trường.

2. Lý thuyết Elliott Wave Theory.

1. Nguyên Lý Sóng Elliott: là phương pháp phân tích dựa trên phản ánh của mô hình giá với tâm lý của nhà đầu tư. Các khuôn mẫu này gọi là “sóng”. Ta có thể coi nó là mở rộng của Lý Thuyết Dow. Nguyên Lý Sóng Elliott cho rằng, dù thị trường có vẻ ngẫu nhiên và bất khả đoán, nhưng thật ra thị trường lại theo các định luật tự nhiên có thể đoán định, có thể đo lường và dự báo trước nhờ dãy số Fibonacci.

2. Wave(1): là sóng khởi đầu của uptrend bắt đầu, các tin tức cơ bản chủ yếu vẫn là tiêu cực. Downtrend trước được xem vẫn còn rất mạnh.  Khối lượng có thể tăng chút đỉnh khi giá tăng, nhưng chưa đủ mạnh. Tâm lý thị trường: cực kỳ sợ hãi. Phân tích sự kết thúc Elliott Wave 5sóng ở TimeFrame nhỏ hơn, kết hợp cùng với Choch/Bos để xác định sóng1 bắt đầu.

3. Wave(2): Sóng2 là sóng điều chỉnh của sóng1, nhưng giá không về thấp hơn điểm khởi đầu của sóng1. Bởi vì những NĐT may mắn mua cùng thời điểm cá mập trước đó và bây giờ chốt lời khiến giá điều chỉnh giảm nhẹ. Tổng quan thì tin tức vẫn còn khá xấu. Giá tìm cách test lại đáy trước. Tuy nhiên, khối lượng thấp hơn so với sóng1. Sóng2 là sóng điều chỉnh với độ dài thường tối đa là 61.8% sóng1. Giá sẽ rơi theo mô hình ba sóng A-B-C. Tâm lý thị trường: hoài nghiCấu tạo sóng2 và sóng4 sẽ ngược nhau, nếu sóng2 là sóng hiệu chỉnh mạnh thì sóng4 hiệu chỉnh phẳng. Sóng2 phức tạp thì sóng4 sẽ đơn giản & ngược lại. Từ quy tắc trên ta suy ra, nếu sóng2 giảm 61.8% thì sóng4 sẽ giảm 38.2% & ngược lại.

4. Wave(3): Sóng3 thường là sóng mạnh nhất trong xu hướng. Tin tức rất tích cực, giá tăng nhanh, điều chỉnh chỉ diễn ra nhẹ nhàng và hồi phục nhanh. Khởi đầu sóng3 thì tin tức vẫn còn xấu, nhưng đến giữa sóng, đám đông sẽ dần tham gia xu hướng. Sóng 3 sẽ tiếp diễn sóng1 theo tỷ lệ 1.618:1 (đôi khi là 2.618:1). Tâm lý thị trường: tham lam. Sóng3 không được là sóng ngắn nhất trong bộ 1, 3, 5. Sóng3 là thời điểm giao dịch sôi động nhất. Do đó sóng3 đi kèm với việc gia tăng khối lượng lớn. Hãy chờ khối lượng xác nhận.

5. Sóng 4: Sóng4 là một đợt điều chỉnh. Giá có thể đi ngang thêm một khoảng thời gian, sóng 4 thường giảm ít hơn 38.2% so với sóng3. Khối lượng thấp hơn so với sóng 3, đây là cơ hội để mua chờ sóng5 nếu bạn tự tin vào sự xuất hiện của sóng5. Tuy nhiên sóng4 gây nhiều sự nản chỉ bởi đã ngăn cản đà của uptrend. Tâm lý thị trường: sợ hãiSóng4 không được chạm vùng giá của sóng1. Cấu tạo sóng4 và sóng2 sẽ ngược nhau, nếu sóng2 là sóng hiệu chỉnh mạnh thì sóng4 hiệu chỉnh phẳng. Sóng 2 phức tạp thì sóng 4 sẽ đơn giản hoặc ngược lại. Từ quy tắc  ta suy ra, nếu sóng2 giảm 61.8% thì sóng4 sẽ giảm 38.2% và ngược lại. Sóng4 và sóng2 bù trừ cho nhau. Nếu sóng2 điều chỉnh mạnh thì sóng4 là sóng điều nhẹ. Nếu sóng 2 về mốc 61,8% thì sóng 4 sẽ về mốc 38,2%. Đôi khi cả sóng2 và sóng4 đều hiệu chỉnh về cùng mức 38,2%.

6. Sóng 5: Sóng 5 là đoạn cuối của chu kỳ lớn. Tin tức rất tích cực và ai cũng tự tin về sự tăng giá. Tiếc thay, đây lại là lúc những nhà đầu tư tay mơ mua vào. Khối lượng của sóng5 thường thấp hơn sóng3. Nhiều chỉ báo đã cho thấy sự phân kỳ. Cuối sóng tăng ta thường thấy những người theo xu hướng giảm bị lôi ra chế giễu. Tâm lý thị trường: cực kỳ tham lam. Thông thường, khi sóng3 là sóng dài nhất, sóng 5 sẽ xấp xỉ hoặc dài hơn chút so với sóng1 nhưng ngắn hơn sóng 3. Ta dùng công cụ Fibonacci mở rộng để đếm sóng, lần lượt chọn điểm đầu sóng 3, điểm cuối sóng 3 và điểm cuối sóng 4. Nếu sóng 5 là sóng dài nhất thì sẽ kết thúc ở mốc 161,8% và không quá mốc 261,8%, nếu sóng 5 ngắn hơn sóng 3, sẽ kết thúc ở mốc 6,18%.

7. Sóng A: Đợt điều chỉnh sẽ khó nhận biết hơn đợt tăng giá. Ở sóng A, tin tức đa phần vẫn còn tích cực. Nhiều phân tích cho rằng đây chỉ là đợt điều chỉnh trong uptrend. Nhiều chỉ báo cho thấy đi cùng sóng A là khối lượng tăng. Tâm lý thị trường: tham lamSóngA thường kết thúc loanh quanh vùng giá bắt đầu của sóng4 trước đó. Có thể cao hơn hoặc thấp hơn vùng giá sóng4. Để tìm sóngA, ta cần sử dụng các đường kháng cự hỗ trợ. SóngA là sóng điều chỉnh mạnh mẽ nên có thể về sâu tới các điểm tranh chấp xu hướng. Điểm sâu nhất có thể là điểm kết thúc sóng 4, khởi đầu sóng 5.
8. Sóng B: Giá đảo chiều và tăng, khiến mọi người tin rằng uptrend sẽ tiếp tục. Phân tích kỹ thuật cho thấy xuất hiện vai phải của mô hình vai-đầu-vai-ngược. Khối lượng sóngB thường thấp hơn sóngA. Tâm lý thị trường: sợ hãi. SóngB ta cũng đo bằng công cụ Fibonacci thoái lui, sóngB thường sẽ kết thúc ở mốc 38,2% đến 61,8%.

9. Sóng C: Giá xuống một cách đột ngột và mạnh mẽ. Khối lượng tăng lên, và đến lúc này mọi người đã nhận ra downtrend đã tới. SóngC thường ít nhất lớn như sóngA và có thể mở rộng ra bằng 1.618 lần sóngA hoặc hơn. Tâm lý thị trường: cực kỳ sợ hãi. 161,8% là độ dài tối đa của sóngC so với sóngA. Theo lý thuyết, sóngC sẽ bằng sóngA hoặc tỷ lệ 1.618:1 với sóngA. Ta có thể xác định đáy sóngC bằng các đường hỗ trợ.

10. (Sóng nhỏ trong sóng lớn): Một con sóng lớn sẽ bao hàm bên trong nhiều con sóng nhỏ có cấu trúc tương tự. Một con sóng Elliott lớn có thể bao gồm nhiều con sóng đồng dạng nhỏ hơn, các chu kỳ sóng được sắp xếp theo thứ tự cấp độ: